Điều ước Nerchinsk Xung đột biên giới Nga – Thanh

Pyotr I của Nga vào thời điểm xung đột ở vùng Amur nổ ra mới chỉ lên nắm quyền không lâu, chưa hoàn toàn chưa củng cố quyền lực. Bên cạnh đó, nước Nga khi đó đang bận rộn với các cuộc chiến tranh ở vùng Baltic, bởi vậy, vào tháng 11 năm 1685, sau khi nhận được thông điệp từ hoàng đế Trung Quốc, Sa hoàng nhận ra rằng Khang Hy không chỉ là một thủ lĩnh bộ lạc, và quyết định cử một phái đoàn ngoại giao đến Bắc Kinh. 2 sứ giả được lệnh sang nhà Thanh thông báo sự xuất hiện của phái đoàn. Họ rời Moskva vào tháng 12 năm 1685 và đến Bắc Kinh vào gần cuối năm 1686. Do khó khăn trong việc liên lạc, chính sách này không được chính quyền địa phương ở Siberia biết, và người Nga ở Nerchinsk quay lại Albazin, gây ra cuộc vây hãm thứ hai. Trong khi đó, Khang Hy, tiếp tục ấp ủ hy vọng hòa bình, không biết liệu thông điệp của mình có đến được đích hay không và liệu hành vi của người Nga ở vùng Amur có phải theo lệnh của Sa hoàng, và vẫn không biết về sự xuất hiện sắp tới của phái bộ Nga, quyết định cử đại sứ Hà Lan ở Trung Quốc mang quốc thư đến Sa hoàng. Đây có thể coi là đề xuất rõ ràng đầu tiên của Trung Quốc với Nga về việc phân định biên giới. Chính quyền Nga được phân biệt với những người Cossack ở vùng Amur, những kẻ đào tẩu, chạy trốn khỏi pháp luật của Sa hoàng.[85][86]

Cũng phải nói thêm, Khang Hy, vào lúc này, cũng phải đối mặt với mối đe dọa của người Oirat từ phía tây bắc. Cát Nhĩ Đan, người đứng đầu các bộ lạc người Oirat, nổi lên vào những năm 1670, lần lượt chiếm giữ các thành trì Kashgar, Hami và Turfan, áp đặt quyền cai trị đối với người Hồi giáo nơi đây cũng như các tuyến đường nối Trung Quốc với phương Tây. Với Cát Nhĩ Đan củng cố quyền kiểm soát Mông Cổ, ông đe dọa trực tiếp đến Bắc Kinh. Vì người Nga và người Oirat đã duy trì quan hệ trong nhiều năm, thậm chí Cát Nhĩ Đan từng cử người tới Nga tìm viện trợ quân sự, Khang Hy lo ngại một liên minh chống Thanh có thể được hình thành và quyết tâm ngăn chặn điều này xảy ra.[87][88][89] Bởi vậy, bất kỳ giải pháp hòa bình đối với tình hình ở Amur đều được Bắc Kinh hoan nghênh. Và khi nhận được bức thư từ Sa hoàng, Khang Hy đã vô cùng hài lòng và ngay lập tức ra lệnh ngừng bao vây Albazin. Cuối tháng 11, đầu tháng 12 năm 1686, lệnh này đến tiền tuyến và quân Thanh lập tức ngừng cuộc vây hãm. Cuối tháng 8 năm 1687, quân Thanh hoàn toàn rời Albazin và quay trở lại Tề Tề Cáp Nhĩ và Aigun. Người Nga được dựng lại làng mạc và trồng trọt, nhưng không được phép săn bắn, vì nhà Thanh coi đây là hành vi xâm phạm chủ quyền.[90][91]

Một vấn đề quan trọng mà cả hai bên đều quan tâm là lòng trung thành của những người bản địa. Đây là trọng tâm của cả Nga và nhà Thanh.[92] Theo một số nhà sử học hiện đại, cuộc cạnh tranh về sự trung thành của người dân địa phương, thay vì vấn đề phân định biên giới, mới là nguồn gốc của cuộc xung đột giữa nhà Thanh và Sa quốc Nga.[35]

Fyodor Golovin được bổ nhiệm làm trưởng phái đoàn đến Trung Quốc. Về chính trị, phái đoàn được chỉ thị đề xuất đường ranh giới dọc theo sông Amur. Trong trường hợp bị từ chối, họ nên nhượng bộ nhỏ bằng cách thay đổi biên giới dọc theo sông Amur và sông Bureya. Trong trường hợp phương án thay thế cũng bị từ chối, biên giới nên được di chuyển xa hơn về phía bắc dọc theo sông Amur và sông Zeya. Về mặt thương mại, họ được chỉ thị thu thập thông tin về các tuyến đường sông đến Trung Quốc, yêu cầu chính thức quy tắc hóa, chính quy hóa thương mại giữa hai nước, thuyết phục nhà Thanh cử đại sứ đến Moskva và đề nghị các thương nhân Trung Quốc bán đồ ở Nga. Golovin rời Moskva vào tháng 1 năm 1687 cùng với Vlasov. Ivan Loginov đã được cử đi trước để đưa tin.[93]

Vào tháng 9 năm 1687, Golovin nhận được chỉ thị bí mật từ Moskva rằng nhượng lại Albazin để đổi lấy các đặc quyền thương mại, để tránh, ngoại trừ trường hợp thực sự cần thiết, bất kỳ cuộc đổ máu nào và nếu tất cả các đề xuất bị từ chối, Golovin phải yêu cầu một phái bộ Nga khác tới. Golovin đến Selenginsk vào ngày 22 tháng 10 năm 1687. Cùng thời gian này, Khang Hy cử người gửi thông điệp đến Moskva phàn nàn về phái đoàn Spathari trước đó, yêu cầu trao trả Gantimur và thông báo về việc dỡ bao vây Albazin, nhưng đã không gặp Golovin trên đường đi.[94]

Vào tháng 5 năm 1688, Loginov đến Bắc Kinh để thông báo sự xuất hiện của Golovin và đề xuất Selenginsk làm nơi hai bên gặp mặt. Hoàng đế nhanh chóng bổ nhiệm một phái đoàn đến đàm phán và ấn định Selenginsk làm địa điểm. Do hai bên đều thiếu thông dịch viên, Khang Hy đã cử hai nhà truyền giáo Dòng Tên ở Trung Quốc, Jean-François Gerbillon và Tomás Pereira đi cùng. Phái đoàn bao gồm hai hoàng tộc nhà Thanh là Sách Ngạch Đồ và Đông Quốc Cương, hai quan chức nhà Thanh cũng như quân lính tùy tùng.[95][96][97] Phái đoàn cùng với 8000 quân, rời Bắc Kinh đến Selenginsk qua Mông Cổ. Vào thời điểm này, không phải tất cả các bộ lạc Mông Cổ đều quy phục nhà Thanh, và người Khalkha đang có chiến tranh với người Oirat, đe dọa đến sự an toàn của phái đoàn, vì vậy họ được lệnh quay trở lại. Một lá thư được gửi cho Golovin, lúc đó đang ở Udinsk, thông báo lý do không xuất hiện.[98][86]

Golovin đến Selenginsk từ Udinsk vào một lúc thời điểm nào đó giữa mùa hè hoặc mùa thu năm 1688. Ở Udinsk và Selenginsk, phái đoàn Golovin bị người Khalka tấn công. Khi người Khalka chuyển hướng tấn công Cát Nhĩ Đan, Golovin đã thành công trong việc phá vòng vây. Vào tháng 3 năm 1689, Golovin tấn công người Khalka ở khu vực sông Selenga, và buộc họ quy thuận người Nga. Khi ở Udinsk và Selenginsk, Golovin, vì những rắc rối trong khu vực, đã cử người đến Bắc Kinh để yêu cầu chọn một địa điểm an toàn hơn. Nhà Thanh đã chọn Nerchinsk làm nơi địa điểm. Khang Hy lúc này đã gọi phái đoàn nhà Thanh về Bắc Kinh. Khang Hy nóng lòng giải quyết các tranh chấp biên giới với Nga để toàn lực đối phó với Cát Nhĩ Đan. Vì vậy, trước khi phái đoàn khởi hành, ông đã chỉ thị cho họ phải nhượng bộ nếu cần.[99]

Vào tháng 6 năm 1689, phái đoàn rời Bắc Kinh đến Nerchinsk. Quân lính tùy tùng cho phái đoàn này đã tăng thêm 1500. Vào tháng 7, họ đến sông Shilka đối diện với thành Nerchinsk. Tổng lực lượng của bên Trung Quốc là khoảng 10.000 người với 76 chiến thuyền, từ 3000-4000 con lạc đà và ít nhất 15.000 con ngựa. Người đứng đầu Nerchinsk cảm thấy bất an trước sự hiện diện của một lực lượng quá lớn.[100][86]

Quá trình đàm phán

Vùng kiểm soát Nga (màu hồng) và nhà Thanh (màu xanh da trời) vào đầu năm 1689.
Biên giới theo Điều ước Nerchinsk (màu đen).
Đề xuất biên giới của Nga (màu đỏ).
Đề xuất biên giới của nhà Thanh ở hồ Baikal (màu xanh lơ)

Vào ngày 18 tháng 8 năm 1689, Golovin đến Nerchinsk. Hai ngày được dùng để sắp xếp sơ bộ và đàm phán bắt đầu vào ngày 22. Trước khi bắt đầu, người Nga nhấn mạnh rằng đàm phán nên được tổ chức với số lượng người hai bên bằng nhau. Để bình đẳng về mọi mặt, lều hai bên nên được đặt ngang bằng cạnh nhau và một lều chung ở giữa để đàm phán.[101][102][86]

Ngày đầu tiên khai mạc với một số câu hỏi nghi thức, cả hai bên đều bắt đầu với những yêu sách của mình. Golovin ban đầu bày tỏ sự ngạc nhiên rằng phái đoàn Trung Quốc cử nhiều người hơn so với thỏa thuận. Các tu sĩ Dòng Tên trả lời rằng người Thanh cố chấp, thiếu hiểu biết về jus gentium, không quen với đàm phán ngoại giao, và hi vọng Golovin có thể mềm dẻo trong vấn đề này. Đại diện nhà Thanh tuyên bố rằng người Nga đã xây dựng Nerchinsk và Albazin trên lãnh thổ mà họ kiểm soát từ lâu, buộc tội Nga ngược đãi người bản địa. Golovin trả lời rằng vùng này chưa bao giờ thuộc quyền kiểm soát của nhà Thanh, và người dân địa phương cống nạp yasak cho Sa hoàng trong một thời gian dài. Ông nhắc lại việc nhà Thanh từ chối phái đoàn Spathari, nhưng các sứ thần nhà Thanh tuyên bố không nhớ gì về điều này, và đề nghị gác lại những tranh cãi trong quá khứ. Golovin đề xuất sông Amur trở thành ranh giới giữa hai bên, với vùng đất ở tả ngạn (bắc và tây) thuộc về Nga, và tất cả lãnh thổ ở hữu ngạn (nam và đông) thuộc về nhà Thanh. Các sứ thần nhà Thanh bác bỏ đề nghị này, cho rằng cả hai bên sông đều thuộc quyền kiểm soát của nhà Thanh và người bản địa vốn cống nạp cho nhà Thanh. Golovin trả lời rằng kể từ thời Alexander Đại đế, nhiều thế lực khác nhau đã cai trị vùng này, và nó đã nằm dưới sự kiểm soát của Sa hoàng trong một thời gian dài. Về phần mình, các sứ thần nhà Thanh yêu cầu người Nga từ bỏ Albazin, Nerchinsk và Selenginsk, đồng thời đề nghị Nga rút xa về phía tây, qua Selenginsk, cho rằng ranh giới nên nằm giữa hồ Baikal và dãy Stanovoy, với lập luận vùng này từng thuộc kiểm soát của Thành Cát Tư Hãn. Golovin không muốn nhượng bộ lớn như vậy, vì vậy ngày đầu tiên kết thúc trong bế tắc.[103][104][65]

Bất chấp bế tắc, cả hai bên đã đạt được những bước đáng kể. Cuộc đàm phán này không bắt đầu bằng việc trình bày những món quà cống nạp; thay vào đó, hai bên đối mặt với nhau bình đẳng, mỗi bên tuân thủ các phong tục của riêng mình. Việc các nhà truyền giáo Dòng Tên thuyết phục nhà Thanh giảm bớt số lượng quân hiện diện và thuyết phục đại diện nhà Thanh đến đàm phán cho thấy họ nhận trách nhiệm cá nhân trong việc làm cho cuộc đàm phán thành công, và họ đã nâng cao lòng tin của cả hai bên đối với nhau.[105]

Vào ngày thứ hai, các cuộc đàm phán lại đổ vỡ. Phái đoàn nhà Thanh yêu cầu bên kia xin chỉ thị thêm từ Moskva, nhưng người Nga từ chối, cho rằng điều này sẽ giúp quân đội nhà Thanh có thời gian đánh chiếm Nerchinsk. Đại diện nhà Thanh cho rằng quân của họ hiện đã bao vây Albazin, ngụ ý rằng có thể dễ dàng tấn công Nerchinsk. Người Nga trả lời rằng họ không sợ quân Thanh, và rằng đe dọa chiến tranh không phải là điều thường thấy trong các cuộc đàm phán. Người Nga nghi ngờ rằng các nhà truyền giáo đang can thiệp vào các cuộc thảo luận, và đề nghị tiến hành thêm thảo luận bằng tiếng Mông Cổ. Tuy nhiên, các sứ thần nhà Thanh nhấn mạnh việc sử dụng tiếng Latinh, đồng thời đảm bảo rằng các tu sĩ Dòng Tên không tham gia vào các cuộc thảo luận chiến lược của họ. Các sứ thần nhà Thanh từ chối nhượng bộ về yêu sách lãnh thổ, nhưng đề nghị rằng họ sẽ cho phép người Nga giữ lại Nerchinsk, nhưng chỉ đơn giản là với danh nghĩa một trạm thương mại. Đề xuất này đã bị từ chối, đại diện nhà Thanh quay trở lại lều.[103][105]

Vào buổi tối cùng ngày, các sứ thần nhà Thanh quyết định tạm dừng đàm phán và chuẩn bị chiến tranh, nói với quân đội tại Albazin sẵn sàng tấn công. Pereira nhắc lại với đại diện nhà Thanh rằng đây không phải là ý định của hoàng đế và rõ ràng rằng người Nga muốn hòa bình. Ông cũng bảo vệ danh dự của các nhà đàm phán Nga, phân biệt họ với những người thuộc tầng lớp thấp đã gây ra rất nhiều rắc rối ở Siberia.[106]

Theo Gerbillon, phái đoàn nhà Thanh đồng ý nhường Selenginsk và Nerchinsk cho người Nga, nhưng kiên quyết yêu cầu phá bỏ Albazin. Các nhà truyền giáo Dòng Tên cũng phải đảm bảo với người Mãn về lòng trung thành trước khi họ có thể khôi phục quyền kiểm soát thông tin liên lạc vì các nhà đàm phán nhà Thanh đã cố gắng qua mặt họ. Họ cũng tuyên bố rằng người Nga sẽ từ bỏ Albazin và một phần lãnh thổ giữa Albazin và Nerchinsk ở phía bắc.[107]

Vào ngày 25 tháng 8, các tu sĩ Dòng Tên đến thăm lều bên Nga với các đề xuất từ phía nhà Thanh. Họ đề nghị thiết lập ranh giới dọc theo sông Shilka, chảy về phía bắc đến sông Amur. Người Nga sẽ kiểm soát lãnh thổ ở phía tả ngạn và nhà Thanh ở phía hữu ngạn. Tài sản của Nga ở hữu ngạn sông có thể di chuyển sang bên kia. Các nhà truyền giáo nói rằng người Nga phải từ bỏ Albazin, nhưng việc phân định lãnh thổ phía bắc Albazin vẫn còn mơ hồ. Họ cam đoan rằng nhà Thanh sẽ làm mọi thứ có thể để đạt được thỏa thuận. Golovin cho rằng không thể từ bỏ Albazin và các pháo đài khác, và không thể cho phép những kẻ phản bội đào ngũ được ở lại lãnh thổ nhà Thanh. Golovin cũng yêu cầu đại diện nhà Thanh gửi một bản đồ để làm rõ vị trí ranh giới. Các quan chức nhà Thanh trả lời rằng họ sẽ trục xuất tất cả người Nga bị bắt trong vùng, nhưng không thể từ bỏ thêm lãnh thổ. Cuộc thảo luận này, cùng với các hồ sơ lưu trữ, thư từ ngoại giao hai bên, chứng tỏ rằng cạnh tranh về lòng trung thành của những người di động trong khu vực là một trong những nguyên nhân gây căng thẳng chính giữa nhà Thanh và Sa quốc Nga, không kém quan trọng so với việc phân định biên giới.[108][109]

Vào ngày 26 tháng 8, Golovin cử một sứ giả mang theo một bản đồ để xác định lãnh thổ tranh chấp. Phái đoàn nhà Thanh cũng cung cấp bản đồ của riêng mình. Họ đề xuất thiết lập ranh giới dọc theo sông Gorbitsa, quaNgoại Hưng An Lĩnh kéo dài về phía Đông Nam tới Biển Bắc hay còn gọi là Biển Okhotsk; lãnh thổ phía tây và phía bắc dãy núi thuộc về Nga, còn khu vực phía đông và phía nam thuộc về Trung Quốc. Phía nam của sông Kerbechi, ranh giới nên đi theo sông Argun. Nhà Thanh cũng đề nghị người Nga không nên tiến vào lãnh thổ của người Khalkha, vốn đã quy thuận Trung Quốc trước đó.[110][108]

Golovin vẫn cố gắng giữ lại Albazin, nhưng mối quan tâm chính của ông là yêu sách của nhà Thanh với người Khalkha. Nhà Thanh muốn vạch ra ranh giới giữa Ngoại Mông và Siberia, đồng thời bảo vệ người Khalkha. Golovin lập luận rằng đây là những người di động, những người mà nhà Thanh chưa bao giờ có bất kỳ quyền lực thực tế nào. Một số bộ lạc người Khalkha từng tấn công Nga và bị quân đội của Sa hoàng khuất phục. Người Khalkha chỉ quy phục nhà Thanh khi giao tranh với Cát Nhĩ Đan, nhưng đây chỉ là tạm thời. Golovin từ chối đàm phán về biên giới Mông Cổ, cho rằng ông không có chỉ thị nào từ Sa hoàng. Các sứ thần nhà Thanh đồng ý trì hoãn việc phân định biên giới phía tây cho đến khi người Oirat và Khalkha hòa bình trở lại. Một vấn đề khác là sự hiện diện Nga ở vùng phía đông của ranh giới đề xuất. Golovin đưa ra câu hỏi liên quan đến một số tòa nhà người Nga xây dựng. Các sứ thần nhà Thanh đồng ý rằng người Nga có thể chuyển những công trình này sang bên kia. Đến cuối ngày, hai bên đã gần giải quyết được tất cả các vấn đề ngoại trừ các pháo đài ở Albazin và Nerchinsk.[108][110]

Khi sắp đạt được thỏa thuận, người Nga quay trở lại lập trường ban đầu. Vì đây là hai tiền đồn chính của Nga trong khu vực, Golovin cảm thấy cần phải giữ lại và đề xuất thay đổi ranh giới. Nghe tin này, phái đoàn Trung Quốc tập hợp quân đội phong tỏa Nerchinsk, chuẩn bị kích động dân bản địa vùng lân cận nổi dậy, và cử người chuẩn bị chiếm Albazin. Người Nga, bên kia đã chuẩn bị cho phòng thủ, các công sự ở Nerchinsk được củng cố.[111][112]

Tuy nhiên, có thể nói cả 2 bên đều không tự tin chiến thắng trong trường hợp xung đột xảy ra. Các nhà truyền giáo thuyết phục nhà Thanh tìm hiểu ý định của người Nga và gợi ý rằng người Nga có thể từ bỏ Albazin nếu có thể giữ lại Nerchinsk. Do vậy, khi một thông dịch viên bên Nga đến lều bên Trung Quốc, họ nhanh chóng tận dụng cơ hội. Gerbillon một lần nữa đến lều bên Nga để tìm hiểu các yêu sách chính xác của Nga. Phía nhà Thanh đưa ra các thay đổi về lãnh thổ, cùng sự đe dọa vũ lực, và Golovin cuối cùng đã chấp nhận. Nhà Thanh đề xuất vẽ biên giới ở sông Argun, phía đông sông Shilka. Họ sẽ không từ bỏ Albazin. Pháo đài Nga ở hữu ngạn sông Argun sẽ được chuyển sang bên tả ngạn (phía bắc). Đồng thời, nhà Thanh tập hợp một số lượng lớn người Ongud và Buriat bỏ trốn từ lãnh thổ Nga sang xung quanh Nerchinsk. Bản thân các sứ thần nhà Thanh lại có ý định đối đầu quân sự, nhưng Gerbillon đã thuyết phục. Người đứng đầu Nerchinsk lúc đầu đã thuyết phục Golovin thực hiện một đường lối cứng rắn, nhưng sau đó, nhân ra mình bắt lợi về mặt quân sự, ông từ bỏ yêu sách đối với Albazin, trong khi vẫn muốn giữ quyền kiểm soát pháo đài Argun cũng như các nguồn muối và khoáng sản ở phía bắc.[113][114]

Vào ngày hôm sau, Golovin cử sứ giả đến yêu cầu nhà Thanh soạn thảo các điều ước hòa bình. Bên cạnh việc phân định biên giới, dự thảo cũng bao gồm một số điều như tước vị ngang bằng giữa hoàng đế Trung Hoa và Sa hoàng; đại sứ hai bên được đối xử một cách tôn trọng; tự do đi lại và thương mại giữa hai bên. Đối với 2 điều đầu, phái đoàn Trung Quốc trả lời rằng họ không có chỉ thị từ hoàng đế, nhưng đảm bảo rằng phái đoàn Nga sẽ luôn được đối xử với sự tôn trọng ở Trung Quốc. Họ cũng đồng ý với điều khoản thứ ba, nhưng từ chối đưa vào, cho rằng vấn đề thương mại quá nhỏ nhặt đối với một hiệp ước ngoại giao.[112][114] Vào ngày 30 tháng 8, các nhà truyền giáo dịch thỏa thuận này sang tiếng Latinh để hai bên thảo luận.[112]

Liên quan đến việc phân định ranh giới, một vấn đề mới nhanh chóng nảy sinh. 2 bên nhận ra rằng dãy Stanovoi (dãy Ngoại Hưng An Lĩnh) không kết thúc ở bờ biển mà chia thành hai dãy; dãy lớn quay về hướng bắc, trong khi dãy nhỏ hướng về phía nam. Giữa hai dãy là một vùng đất trù phú rộng lớn bồi đắp bởi bởi sông Uda. Nhà Thanh tuyên bố dùng dãy lớn, trong khi người Nga khẳng định rằng họ đã đồng ý với dãy nhỏ làm ranh giới.[115]

Vào đầu tháng 9 năm 1689, đại diện nhà Thanh lo ngại đàm phán đổ vỡ và có thể phải chịu sự trừng phạt từ hoàng đế. Các nhà truyền giáo một lần nữa được cử đến chỗ người Nga để đàm phán. Phái đoàn Nga sau đó gửi một bức thư cho bên Trung Quốc, đề nghị để nguyên vùng đất này, chưa phân định ranh giới, và đại diện nhà Thanh đồng ý với điều này. Vào thời điểm đó, cả hai bên có lẽ đã quá mệt mỏi để đưa ra thêm bất kỳ vấn đề nào. Bên Trung Quốc từ bỏ yêu sách về Gantimur vì ông ta đã chết một thời gian trước đó và hậu duệ của Gantimur không có quá nhiều ảnh hưởng. Thay vào đó, đại diện nhà Thanh chỉ đề xuất rằng trong tương lai hai bên không nên chứa chấp những kẻ đào tẩu từ bên kia. Hai bên hoàn thành các đàm phán ban đầu và bắt đầu soạn thảo bản chính của điều ước.[116]

Wikisource có văn bản gốc liên quan đến bài viết:
Wikisource có văn bản gốc liên quan đến bài viết:
Wikisource có văn bản gốc liên quan đến bài viết:

Vào ngày 6 tháng 9, bản cuối cùng của điều ước, được viết bằng tiếng Latinh, tiếng Mông Cổ, tiếng Mãn, tiếng Trung và tiếng Nga, đã được đại diện hai bên ký, đóng dấu và tuyên thệ.[112] Người Nga giao một bản bằng tiếng Latinh và một bản bằng tiếng Nga cho đại diện nhà Thanh, còn nhà Thanh trao một bản bằng tiếng Latinh và một bản bằng tiếng Mãn cho người Nga. Bản Latinh đã được cả hai bên ký và đóng dấu, và và coi là chính thức. Gerbillon nói rằng Khang Hy lệnh cho đại diện nhà Thanh tuyên thệ trước Chúa, bởi vì ông tin rằng điều này vô cùng thiêng liêng với người Nga và họ sẽ không làm trái thỏa thuận.[117] Năm 1690, Khang Hy ra lệnh đặt đá ranh giới trên sông Kerbechi và các điểm biên giới khác.[118]

Ý nghĩa của Điều ước Nerchinsk

Với Điều ước Nerchinsk, vốn quy định chặt chẽ quan hệ giữa nhà Thanh và Nga, ngăn chặn bất kỳ sự can thiệp nào vào việc nội bộ của nhau, Khang Hy có thể tập trung toàn lực để đánh bại Cát Nhĩ Đan ở Trung Á. Moskva hứa sẽ giữ thái độ trung lập, không giúp đỡ người Oirat, và nhà Thanh đã ngăn cản một liên minh chống Thanh. Đối với nhà Thanh, người Oirat mang đến mối đe dọa lớn hơn nhiều so với người Nga, và nếu Điều ước Nerchinsk chưa được ký kết, rất có thể Nga sẽ liên minh với Cát Nhĩ Đan để chống lại người Khalka và Trung Quốc. Trên thực tế, Cát Nhĩ Đan đã nhiều lần cử người tới Nga để tìm kiếm viện trợ hoặc liên minh. Vào tháng 7 năm 1689, Cát Nhĩ Đan cử người đến Moskva để cải thiện mối quan hệ song phương với hy vọng rằng Nga sẽ giúp đỡ chống lại người Khalka và nhà Thanh. Vào tháng 3 năm 1690, khi Golovin trên đường trở về, ở Irkutsk, Cát Nhĩ Đan đã cử người gửi một lá thư đề xuất một liên minh tới Golovin, Cát Nhĩ Đan gửi một lần nữa tới Tolbolsk vào tháng 8 cùng năm, và một lần nữa đến Nerchinsk. Nga, vừa ký Điều ước Nerchinsk, không có tâm trạng liên minh với người Oirat. Trong khi đó, năm 1690, trên cơ sở thỏa thuận, Khang Hy cảnh báo Nga không được giúp đỡ Cát Nhĩ Đan. Do đó, vào năm 1696, Nga từ chối khi Cát Nhĩ Đan nhờ giúp đỡ. Năm 1696, Khang Hy viễn chinh tấn công Cát Nhĩ Đan và đánh bại hoàn toàn người Oirat. Năm 1697, Cát Nhĩ Đan trốn vào sa mạc và qua đời.[119]

Điều ước Nerchinsk kết thúc cuộc xung đột biên giới Nga - Thanh là thỏa thuận đầu tiên mà Trung Quốc ký với một nhà nước phương Tây.[120][109] Thỏa thuận này phản ánh sự cân bằng quyền lực tổng thể trong khu vực, cũng như cho thấy Nga ưu tiên quan hệ thương mại với Trung Quốc hơn là lãnh thổ.[121]

Về mặt biểu tượng, Điều ước này đánh dấu một sự thay đổi trong quan hệ đối ngoại của Trung Quốc và một sự khác biệt lớn so với các tập quán truyền thống của Trung Quốc, vì đây có lẽ là thỏa thuận đầu tiên của Trung Quốc dường như thừa nhận bình đẳng với nước ngoài, không có những nghi thức thông thường của nhà Thanh. Hai bên đối xử bình đẳng với nhau, thể hiện rõ qua cách thức tiến hành đàm phán tại Nerchinsk, cách thức soạn thảo hiệp ước và thủ tục ký kết hiệp ước. Đây cũng là lần đầu tiên một cường quốc châu Âu yêu cầu Trung Quốc chấp nhận một khuôn mẫu thông luật quan hệ quốc tế nhất định, bao gồm bình đẳng giữa các quốc gia, trao đổi các đại diện ngoại giao, việc trực tiếp nguyên thủ quốc gia, và quyền tự do thương mại, những điều vốn không thường thấy với Trung Quốc.[122]

Các bên trung gian đóng một vai trò quan trọng trong việc dịch thuật và thu hẹp khoảng cách văn hóa giữa 2 bên. Các nhà truyền giáo Dòng Tên có một vai trò đáng kể trong các cuộc đàm phán. Chính sự đóng góp của các tu sĩ Dòng Tên mà lần đầu tiên một số nguyên tắc và thông luật quốc tế được đưa vào Trung Quốc.[123][124]

Theo Điều ước Nerchinsk, cả hai bên đồng ý giữ lại những người đào tẩu trước năm 1689 nhưng hứa không chứa chấp những kẻ đào tẩu từ bên kia trong tương lai. Sự đảo ngược chính sách này của Nga không chỉ đơn giản là thỏa hiệp với yêu cầu của nhà Thanh, mà là một động thái ngoại giao được tính toán kỹ lưỡng, nhằm mang lại lợi ích cho cả Nga và Trung Quốc trong khu vực. Nếu như nhà Thanh phải vật lộn để kiểm soát những người như Gantimur, Lopsodeiko và những người Hán đào tẩu, người Nga cũng gặp khó khăn trong việc kiểm soát cư dân của họ. Việc có một điều ước hòa bình với điều khoản dẫn độ phục vụ cho mục đích của Nga là đưa quyền lực của nhà nước, cũng như pháp luật và trật tự đến vùng biên giới.[125]

Phái đoàn Ides

Năm 1692, Pyotr I của Nga cử Ides đi sứ Trung Quốc với mục đích xác nhận điều ước năm 1689, và cải thiện điều kiện thương mại hai bên. Ông lên đường từ Moskva vào tháng 3 năm 1692, và đến Bắc Kinh vào tháng 11 năm 1693.[126]

Năm 1691, chính quyền Moskva nhận được báo cáo rằng một nhóm người Mông Cổ ở Siberia trốn qua biên giới sang Trung Quốc. Trong khi đó, dù các thương nhân Nga đã đến Bắc Kinh nhiều lần nhưng họ vẫn ở trong tình trạng bất định, không chắc chắn. Nga không hài lòng với điều này. Để chính quy hóa hơn nữa các mối quan hệ thương mại 2 bên, và giải quyết vấn đề của những người trốn quá biên giới, Sa hoàng đã đưa ra chỉ thị cho Ides thiết lập các mối quan hệ thương mại, giải quyết các vấn đề biên giới, yêu cầu dẫn độ những người bỏ trốn và tìm hiểu thái độ của nhà Thanh với Điều ước Nerchinsk.[127]

Tuy nhiên, mục đích chính của phái đoàn là đảm bảo một số đặc quyền thương mại và giải quyết một số vấn đề ngoại giao theo Điều ước Nerchinsk. Nói cách khác, Ides đã cố gắng thực hiện một số thỏa thuận theo điều ước đã quy định. Năm 1693, trong khi phái đoàn Ides vẫn còn ở Bắc Kinh, Nga đã gửi trở lại hai người bỏ trốn sang Siberia. Một số người Nga đã vượt qua biên giới về phía nam để đi săn; nhà Thanh viết thư cho voivode ở Nerchinsk, yêu cầu gọi họ lại và trừng phạt, đồng thời không việc tương tự xảy ra. Vào năm 1695, Nga trục xuất trở lại Trung Quốc 1 thủ lĩnh Mông Cổ nổi dậy.[128]

Thông qua phái đoàn Ides, cả Nga và Trung Quốc đều biết được thái độ của nhau đối với Điều ước Nerchinsk. Ý nghĩa của phái đoàn với việc xác nhận Điều ước, trên thực tế, tương đương với việc phê chuẩn. Sau khi kết thúc sứ mệnh của mình, Ides rời Bắc Kinh vào tháng 2 năm 1694 và về Moskva vào tháng 1 năm sau.[128]